Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và lời Sấm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585) được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Lê-Mạc phân tranh cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam.



Tượng Nguyễn Bỉnh khiêm

Tiểu sử

Ông sinh năm Tân Hợi đời vua Lê Thánh Tông, tức năm Hồng Đức thứ 22 (1491) tại làng Trung Am huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay là làng Trung Am xã Lý Học huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sinh trưởng trong một danh gia vọng tộc, thân phụ ông là Thái bảo Nghiêm Quận công Nguyễn Văn Định; thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái quan Thượng thư Nhữ Văn Lân, là người giỏi văn thơ và am hiểu lý số, nên Nguyễn Bỉnh Khiêm từ sớm đã tiếp thụ truyền thống gia giáo kỷ cương.

Ông khôi ngô, tuấn tú, tư chất khác thường, một tuổi ông đã nói sõi, lên năm tuổi được mẹ dạy cho kinh sách, truyền miệng cho thơ văn chữ Nôm, ông học đâu nhớ đấy, không quên chữ nào.

Lớn lên ông theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều, huyện Hoằng Hoá (Thanh Hoá). Ông sáng dạ, thông minh lại chăm chỉ học hành nên được thầy rất khen ngợi.

Thời bấy giờ trong nước biến loạn, ông không muốn xuất đầu, lộ diện, đành ở ẩn một nơi. Năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời vua Mạc Đăng Doanh lúc 45 tuổi, ông mới đi thi và đậu Trạng nguyên. Vua Mạc cất ông lên làm Tả Thị lang Đông các Học sĩ. Vì ông đỗ Trạng nguyên và được phong tước Trình Tuyền hầu nên dân gian gọi ông là Trạng Trình.

Làm quan được bảy năm, ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan năm 1542.

Khi về trí sĩ, ông dựng am Bạch Vân và lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ mở trường dạy học cạnh sông Tuyết, do đó học trò gọi ông là “Tuyết giang Phu tử”. Bạn của ông là những tài danh lỗi lạc một thời như Bảng nhãn Bùi Doãn Đốc, Thám hoa Nguyễn Thừa Hưu, Thư Quốc công Thương thư Trạng nguyên Nguyễn Thiến. Học trò của ông có nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Dữ- tác giả Truyền kỳ mạn lục, Thượng thư Bộ Lễ Lương Hữu Khánh,Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Quốc công Nguyễn Quyện, Thượng thư Bộ Hộ Trạng nguyên Giáp Hải, Tiến sĩ Trương Thời Cử, Tiến sĩ Đinh Thời Trung, Hàn Giang Phu tử Nguyễn Văn Chính …

Ông mất năm Ất Dậu (1585) hưởng thọ 95 tuổi. Lễ tang ông có quan phụ chính triều đình là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng dẫn đầu các quan đại thần về viếng. Việc vua Mạc cử người được vua coi như cha về dự lễ tang nói lên sự trân trọng rất lớn của nhà Mạc với Trạng Trình. Trong buổi lễ tang ấy, Ứng vương đã thay mặt vua truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm tước Thái phó Trình Quốc công.

Tiên tri

Khi theo học Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, ông được truyền cho quyển Thái Ất thần kinh từ đó ông tinh thông về lý học, tướng số… Sau này, dù Nguyễn Bỉnh Khiêm không còn làm quan nhưng vua Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) vẫn phong cho ông tước Trình Tuyền hầu vào năm Giáp Thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, giống như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa. Sau đó được thăng chức Thượng thư bộ Lại tước hiệu Trình quốc công.

Nhờ học tính theo Thái Ất, ông tiên đoán được biến cố xảy ra 500 năm sau này. Người Trung Hoa khen Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”. Ông tinh thông về thuật số, được dân gian truyền tụng và suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Ông đã cho ra đời hàng loạt những lời tiên tri cho hậu thế mà người đời gọi là “Sấm Trạng Trình”.

Tương truyền, ông là người đã đưa ra lời khuyên giúp các nhà Nguyễn, Mạc, Trịnh, Lê. Khi Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm giết, ông khuyên nên xin về phía nam với câu “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (có tài liệu viết là “khả dĩ dung thân”) nghĩa là “Một dải Hoành Sơn có thể dung thân lâu dài”. Nguyễn Hoàng nghe theo và lập được nghiệp lớn, truyền cho con cháu từ đất Thuận Hoá. Lúc nhà Mạc sắp mất cũng sai người đến hỏi ông, ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên số thể” (tức Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa. Đối với Lê – Trịnh, khi vua Lê Trung Tông chết không có con nối, Trịnh Kiểm định thay ngôi nhà Lê nhưng còn sợ dư luận nên sai người đến hỏi ông. Ông nói với chú tiểu, nhưng thực ra là nói với bề tôi họ Trịnh: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” (ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn). Trịnh Kiểm nghe theo, sai người tìm người tôn thất nhà Lê thuộc chi Lê Trừ (anh Lê Lợi) đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng thờ nhà Lê nhưng nắm thực quyền điều hành chính sự, còn nhà Lê nhờ họ Trịnh lo đỡ cho mọi chuyện chính sự, hai bên nương tựa lẫn nhau tồn tại tới hơn 200 năm. Bởi thế còn có câu: “Lê tồn Trịnh tại”.

Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585). Là một nhà thơ lớn của dân tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình. Là một người thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông trạng tiên tri…

Những lời khuyên làm nên sự nghiệp

Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:

“Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung thân”

(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)

Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành “vạn đại dung thân”, hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.

Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm thóc giống cũ mà gieo”. Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.

Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm, với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với triều đình Lê – Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài gõ cửa và nói vọng vào:

“Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không dậy, ngủ mãi ử”

Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:

“Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành động gấp và dứt điểm như cuốn chiếủ”

Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: “Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ thế” (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời). Sau quả đúng như vậy.

Những lời sấm cho nhiều đời sau

Dân gian lưu truyền nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán – Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép, chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là “tồn nghi” nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu.

Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:

“Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách

Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn

(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi

Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)

Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.

Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 – 1840) trong dân gian lưu truyền một câu sấm: “Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương” (đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền thờ Trạng Trình.

Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:

“Minh Mệnh thập tứ

Thằng Trứ phá đền

Phá đền thì lại làm đền

Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai”.

Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.

Ở một tập sấm mở đầu có các câu:

“Nước Nam thường có thánh tài

Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng

Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho

Học cách vật mới dò tới chốn…”

Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu – Côn Đảo? Nơi có tiềm năng về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học – kỹ thuật (học cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu vàng trời cho.

Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:

“Một đời có một tôi ngoan,

Giúp chung nhà nước dân an thái bình

Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi”

[…]

Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:

“Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ

Hưng tộ diên trường ức vạn xuân”

(Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm

sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân)

Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba trăm năm sau, trong bộ sách lớn “Lịch triều hiến chương loại chí”, nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh Khiêm là “Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở”.

Trường Sơn

——————————————————————————–

Phía sau những con đường là một vầng trăng khuyết

Phía sau tiếng chuông chùa là khoảnh khắc bình yên

Phía sau mắt em buồn là cuộc đời xanh biếc

Phía sau nụ cười là những niềm đau

Vịt con xấu xí chờ đợi một tình yêu để hóa thân thành thiên nga

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là người đầu tiên sử dụng 2 tiếng Việt Nam từ thế kỷ 15

Dù giải thích thế nào, thì quốc hiệu Việt Nam cũng được Trạng Trình sử dụng đầu tiên, nhiều nhất và có ý thức nhất. Từ nguồn gốc này, lịch sử quốc hiệu đất nước không còn phụ thuộc vào hai triều đại phong kiến nữa.

Khả năng dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Dự báo, tiên tri dự đoán những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai, đó là vấn đề được người đời sau truyền tụng ở tài năng của nhà văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Những tập sấm ký của Trạng Trình được xuất bản trước . . . đã ghi lại những điều tiên đoán, nhưng nhiều khi không phải là đích thực của ông, mà là những việc thêm thắt về sau, dựa vào danh tiếng của ông mà hư tạo nên. Vậy, tài năng tiên đoán của Nguyễn Bỉnh Khiêm là như thế nào, hư thực đến đâu và sao ông lại có tài năng ấy, đó là những vấn đề đang được nghiên cứu, chưa có ai khẳng định được suy luận của mình là chính xác.

Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm am hiểu sâu sắc Kinh Dịch, tinh thông Thái Ất Thần Kinh của Dương Hùng đời Hán, chuyên sâu quan điểm duy vật (quan sát sự vật) và tác phẩm Hoàng Cực Kinh Thế của Thiệu Ung thời Bắc Tống, qua sự truyền dạy của người thầy uyên bác là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Tinh thần cốt lõi của các học thuyết nói trên là xây dựng những định lý của sự sinh thành và phát triển vũ trụ, Kinh Dịch dần dần ở các giai đoạn sau đi vào nhiều lĩnh vực : Lý học, Số học, tượng số học, thể hiện đầu tiên bằng những số hiệu trong Bát Quái Đồ của Phục Hy (năm 2850 tr. CN) từ Thái Cực (thể thống nhất đầu tiên) đến chia hai (lưỡng nghi) rồi chia bốn (tứ tượng) và tiếp tục mãi mãi, lập thành những hào quẻ vô cùng biến hoá để nói lên mọi hiện tượng, từ trời đất đến nhân sinh. Khởi phát là một ký hiệu học thô sơ, nhưng về sau nhiều kẻ đã lợi dụng, phủ lên một tính chất hoang đường, huyền hoặc. Chúng ta cần phân biệt giá trị khoa học của dịch lý và những luận điểm dị đoan để giữ lại tinh tuý của một nền học thuật hết sức sâu xa mà khoa học hiện đại đang tiếp tục khai thác.

Điều rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi lý số và ông từng áp dụng kiến thức về mặt này để phát biểu ý kiến của mình đối với thời thế, mang tính dự báo khá chính xác … Những ý kiến tiên đoán đều đã được chứng minh trong lịch sử, cho thấy khả năng nhìn trước của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khả năng ấy xuất phát từ việc tinh thông lý học của ông, từ kinh nghiệm cuộc sống, sự nắm chắc tình hình và tương quan lực lượng của các thế lực cát cứ lúc bấy giờ. Sự thông tuệ của ông đã cho phép ông suy nghiệm và đoán trước những việc xảy ra trong nước, trên cơ sở thực tiển. Nếu nghĩ rằng đó chỉ là kết quả của việc bói toán mang tính thần bí thì chúng ta sẽ phạm sai lầm và đánh giá thấp nhà văn hoá lớn của chúng ta. Trước đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có vế đối : “Lý học thâm uyên Trình tiên giác” cũng đã nói rõ sự tiên giác của Nguyễn Bỉnh Khiêm là do ông uyên thâm về lý học, cộng với cuộc đời gần một thế kỷ của ông.

Trong đoạn sấm Trạng Trình có câu:

Long Vĩ Xà đầu khởi chiến tranh,

Can qua xứ xứ khởi đao binh,

Mã dề Dương cước, anh hùng tận.

Thân Dậu niên lai kiến thái bình.

Qua 4 câu trên thì 2 câu đầu đã thấy sự kiện xảy đúng với năm mà sấm ký mô tả: Long vĩ là đuôi rồng, tức cuối can là Nhâm Thìn (năm 2012) , Xà đầu là đầu năm Tỵ, tức là năm 2013 xảy ra đại thế chiến thứ III, và năm mùi thì các anh hùng chết hết. Lúc đó thiên hạ mới thái bình. Điều này trong kinh Phật cũng có nhắc tới.

Có người còn dịch là Long vĩ là đuôi rồng, tức cuối năm Canh Thìn (năm 2000) , Xà đầu là đầu năm Tỵ, tức là năm 2001 xảy ra cuộc đại khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001-và Tổng Thống Bush của Hoa Kỳ tuyên bố tình trạng chiến tranh- Sau đó là cuộc liên minh quân sự của nhiều nước Hoa Kỳ, Tây Âu .. tấn công vào Afghanistan, sau đó Iraq và tận diệt quân khủng bố khắp thế giới.

Thơ của Sấm Trạng Trình

Chương Nhất

1 – Vận lành mừng gặp tiết lành

2 – Thấy trong quôc ngữ lập thành nên câu

3 – Một câu là một nhiệm màu

4 – Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao

5 – Trải vì sao mây che Thái ất

6 – Thủa cung tay xe nhật phù lên

7 – Việt Nam khởi tổ xây nên

8 – Lạc Long ra trị đương quyền một phương

9 – Thịnh suy bỉ thới lẽ thường

10 – Một thời lại một nhiễu nhương nên lề

11 – Đến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ

12 – Mở bản đồ rủ aó chấp tay

13 – Nhự đao phút chốc đổi thay

14 – Tập bát tử rày quyền đã nổi lên

15 – Đông a âm vị nhi thuyền

16 – Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh

17 – Chấn cung hiện nhật quang minh

18 – Sóng lay khôn chống trường thành bền cho

19 – Đoài cung vẽ rạng trăng thu

20 – Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn

21 – Sáng cửu thiên ám vầng hồng nhật

22 – Dưới lẫn trên n( vẫn uống quen

23 – Sửa sang muôn việc cầm quyền

24 – Ngồi không ai dễ khẫng nhìn giúp cho

25 – Kià liệt vương khí hư đồ ủng

26 – Mặc cường hầu ong ỏng tranh khôn

27 – Trời sinh ra những kẻ gian

28 – Mặt khôn đổi phép, mặc ngoan tham taì

29 – Áo vàng ấm áp đà hay

30 – Khi sui đấp núi khi say xây thành

31 – Lấy đạt điền làm công thiên hạ

32 – Được mấy năm đất lở giếng mòn

33 – Con yết ạch ạch tranh khôn

34 – Vô gìa mợ hội mộng tôn làm chùa

35 – Cơ trời xem đã mê đồ

36 – Đã đô lại muốn mở đô cho người

37 – ấy lòng trời xuôi lòng bất nhẫn

38 – Suốt vạn dân cưu giận nhân than

39 – Dưới trên dốc chí lo toan

40 – Những đua bán nước bán quan làm giàu

41 – Thống rủ nhau làm mồi phú quí

42 – Mấy trung thần có chí an dân

43 – Đua nhau làm sự bất nhân

44 – Đả tuần bốn bể lại tuần đầu non

45 – Dư đồ chia xẻ càn khôn

46 – Mối giềng man mác khiếp mòn lòng nhau

47 – Vội sang giàu giết người lấy của

48 – Sự có chăng mặc nọ ai đôi

49 – Việc làm thất chính tơi bời

50 – Minh ra bổng lại thất thôi bấy giờ

51 – Xem tượng trời đả gia ra trước

52 – Còn hung hăng bạc ngược qúa xưa

53 – Cuồn phong cả sớm liền trưa

54 – Đả đờn cửu khúc còn thơ thi đề

55 – ấy Tần Vương ngờ u mê chẳng biết

56 – Để vạn dân dê laị giết dê

57 – Luôn năm trật vật đi về

58 – Âm binh ở giửa nào hề biết đâu

59 – Thấy nội thành tiếng kêu ong ỏng

60 – Cũng một lòng trời chống khác nào

61 – Xem người dường vững chiêm bao

62 – Nào đâu còn muốn ước ao thái bình

63 – Một góc thành làm tâm chứng quỷ

64 – Đua một lòng ích kỷ hại nhân

65 – Bốn phương rơì rở hồng trần

66 – Làng khua mỏ cá lãng phân điếm tuần

67 – Tiếc là những xuất dân làm bạo

68 – Khua dục loài thỏ cáo tranh nhau

69 – Nhân danh trọn hết đâu đâu

70 – Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê

71 – Hùm già lạc dấu khôn về

72 – Mèo non chi chí tìm về cố hương

73 – Chân dê móng khởi tiêu tường

74 – Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình

75 – Nội thành ong ỏng hư kinh

76 – Đầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang

77 – Bở mồ hôi Bắc giang tái mã

78 – Giữa hai xuân bỗng phá tổ long

79 – Quốc trung kinh dụng cáo không

80 – Giữa năm giả lại kiểm hung mùa màng

81 – Gà đâu sớm gáy bên tường

82 – Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không

83 – Thủy binh cờ phất vầng hồng

84 – Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng

85 – Đứng hiên ngang đố ai biết trước

86 – ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?

87 – Ai còn khoe trí khoe năng

88 – Cấm kia bắt nọ tưng bừng đôi nơi

89 – Chưa từng thấy đời nào sự lạ

90 – Bổng khiến người dá hoạ cho dân

91 – Muốn bình sao chẳng lấy nhân

92 – Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày

93 – Đả nên si Hoàn Linh đời Hán

94 – Đúc tiền ra bán tước cho dân

95 – Xung xoe những rắp cậy quân

96 – Chẳng ngờ thiên đạo xây dần đã công

97 – Máy hoá công nắm tay dễ ngõ

98 – Lòng báo thù ai dễ đã ngờ uôi

99 – Thung thăng tưởng thấy đạo trời

100 – Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra

101 – Cát lầm bốn bể can qua

102 – Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về

103 – Quân hùng binh nhuệ đầy khe

104 – Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời

105 – Bấy gia+ý càng khốn thay ôi

106 – Quỉ ma trật vật biết trời là đâu ?

107 – Thương những kẻ ăn rau ăn giới

108 – Gặp nước bung con cái ẩn đâu

109 – Báo thù ấy chẳng sai đâu

110 – Tìm non có rẩy chừng sau mới toàn

111 – Xin những kẻ hai lòng sự chúa

112 – Thấy đâu hơn thì phụ thưả ân

113 – Cho nên phải báo trầm luân

114 – Ai khôn mới được bảo thân đời này

115 – Nói cho hay khảm cung rồng dấy

116 – Chí anh hùng xem lấy mới ngoan

117 – Chữ rằng lục thất nguyệt gian

118 – Ai mà nghĩ được mới gan anh tài

119 – Hể nhân kiến đã dời đất cũ

120 – Thì phụ nguyên mới chổ binh ra

121 – Bốn phương chẳng động can qua

122 – Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi

123 – Bấy gia+ý mở rộng qui khôi

124 – Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn

125 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh

126 – Hoàng phúc xưa đã định tây phong

127 – Làu làu thế giới sáng trông

128 – Lồ lộ mặt rồng đầu có chử vương

129 – Rỏ sinh tài lạ khác thường

130 – Thuấn Nghiêu là chí Cao Quang là tài

131 – Xem ý trời có lòng đaĩ thánh

132 – Đốc sinh hiền điều đỉnh nội mai

133 – Chọn đầu thai những vì sao cả

134 – Dùng ở tay phụ tá vương gia

135 – Bắc phương chính khí sinh ra

136 – Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai

137 – Song thiên nhật rạng sáng soi

138 – Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường

139 – Đời này thánh kế vị vương

140 – Đủ no đạo đức văn chương trong mình

141 – Uy nghi trạng mạo khác hình

142 – Thác cư một gốc kim tinh phương đoài

143 – Cùng nhau khuya sớm dượng nuôi

144 – Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân

145 – Binh thơ mấy quyển kinh luân

146 – Thiên văn điạ lý nhân luân càng mầu

147 – Ở đâu anh hùng hẳn biết

148 – Xem sắc mây đã biết thành long

149 – Thánh nhân cư có thụy cung

150 – Quân thần đã định gìn lòng chớ tham

151 – Lại dặn đấng tú nam chí cả

152 – Chớ vội vàng tất tả chạy rong

153 – Học cho biết lý kiết hung

154 – Biết phương hướng bội chớ dùng làm chi

155 – Hể trời sinh xuống phải thì

156 – Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông

157 – Kià những kẻ vội lòng phú quí

158 – Xem trong mình một thí đều không

159 – Ví dù có gặp ngư ông

160 – Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng

161 – Xin khuyên đấng thời trung quân tử

162 – Lòng trung nghi ai nhớ cho tinh

163 – Âm dương cơ ngẩu ngô sinh

164 – Thái nhâm thái ất trong mình cho hay

165 – Văn thì luyện nguyên bài quyết thắng

166 – Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh

167 – Võ thông yên thủy thần kinh

168 – Được vào trận chiến mới càng biến cơ

169 – Chớ vật vờ quen loài ong kiến

170 – Biết ray tay miệng biếng nói không

171 – Ngỏ hay gặp hội mây rồng

172 – Công danh choi chói chép trong vân đaì

173 – Bấy giờ phỉ sức chí trai

174 – Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình

175 – Nặng lòng thật có vĩ kinh

176 – Cao tay mới gẩm biết tình năm nao

177 – Trên trời có mấy vì sao

178 – Đủ no biền tướng anh hào đôi nơi

179 – Nước Nam thường có thánh tài

180 – Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường

181 – So mấy lời để tàng kim quỉ

182 – Chờ hậu mai có chí sẽ cho

183 – Trước là biết nẽo tôn phò

184 – Sau là cao chí biết lo mặc lòng

185 – Xem đoài cung đến thời bất tạo

186 – Thấy vĩ tinh liệu rạo cho mau

187 – ngờ uôi lòng tham tước tham giàu

188 – Tìm nơi tam hiểm mới hầu bảo thân

189 – Trẻ con mang mệnh tướng quân

190 – Ngở oai đã dấy ngở nhân đã nhường

191 – Ai lấy gương vua U thủa trước

192 – Loạn ru vì tham ngược bất nhân

193 – Đoài phương ong khởi lần lần

194 – Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn

195 – Man mác một đỉnh Hoành Sơn

196 – Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù

197 – ấy là những binh thù Thái Thái

198 – Lòng trời xui ai nấy biết ru ?

199 – Phá điền đầu khỉ cuối thu

200 – Tái binh mới động thập thò liền sang

201 – Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết

202 – Vẽ laị thêm hung kiệt mất mùa

203 – Lưu tinh hiện trước đôi thu

204 – Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm

205 – Xem thấy những sương săm tuyết lạnh

206 – Loài bất bình tranh mạnh hung hăng

207 – Thành câu cá, lưả tưng bừng

208 – Kẻ ngàn đông Hải người rừng Bắc Lâm

209 – Chiến trường chốn chốn cát lầm

210 – Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông

211 – Sang thu chín huyết hồng tứ giả

212 – Noi đàng dê tranh phá đôi nơi

213 – Đua nhau đồ thán quần lê

214 – Bấy giờ thiên hạ không bề tưạ nương

215 – Kẻ thì phải thủa hung hoang

216 – Kẻ thì binh hoả chiến trường chết oan

217 – Kẻ thì mắc thửa hung tàn

218 – Kẻ thì bận của bổng toan khốn mình

219 – Muông vương dựng ổ cắn tranh

220 – Điều thì làm chước xuất binh thủ thành

221 – Bời bời đua mạnh tranh giành

222 – Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày

223 – Bể thanh cá phải ẩn cây

224 – Đất bằng nổi sấm cát bay mịt mù

225 – Nào ai đã dễ nhìn U

226 – Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn

227 – Cây bay lá lưả đôi ngàn

228 – Một làng còn mấy chim đàn bay ra

229 – Bốn phương cùng có can qua

230 – Làm sao cho biết nơi nào bảo thân

231 – Đoài phương thức có chân nhân

232 – Quần tiên khởi nghỉa chẳng phân hại người

233 – Tìm cho được chốn được nơi

234 – Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình

235 – Bốn bề núi đá riểu quanh

236 – Một đường tiểu mạch nương mình dấy an

237 – Hể đông nam nhiều phen tàn tạc

238 – Tránh cho xa kẻo mắc đao binh

239 – Bắc kinh mới thật đế kinh

240 – Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào

241 – Chim hồng vổ cánh bay cao

242 – Tìm cho được chốn mới vào thần kinh

243 – Ai dễ cứu con thơ sa giếng

244 – Đưa một lòng tranh tiếng dục nhau

245 – Vạn dân chịu thủa u sầu

246 – Kể dư đôi ngủ mới hầu khoan cho

247 – Cấy cày thu đải thời mùa

248 – Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai

249 – Nhân ra cận duyệt viễn lai

250 – Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm

251 – Xem tượng trời biết đường đời trị

252 – Gẩm về sau họ Lý xưa nên

253 – Giòng nhà để lấy dấu truyền

254 – Gẩm xem bốn báu còn in đời đời

255 – Thần qui cơ nổ ở trời

256 – để làm thần khí thủa nơi trị trường

257 – Lại nói sứ Hoàng Giang sinh thánh

258 – Sông Bảo Giang thiên định ai hay

259 – Lục thất cho biết ngày dày

260 – Phụ nguyên ấy thực ở dầy tào khê

261 – Có thầy nhân thập đi về

262 – Tả phụ hửu trì cây cỏ làm binh

263 – Giốc hết sức sưả sang vương nghiệp

264 – Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời

265 – Ra tay điều chỉnh hộ may

266 – Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân

267 – Lọ là phải nhọc kéo quân

268 – Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về

269 – Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng

270 – Lộ ngủ tinh trinh tượng thái hanh

271 – Ân trên vũ khí vân hành

272 – Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài

273 – Bản đồ chảng sót cho ai

274 – Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn

275 – Vấng nền vương cha truyền con nối

276 – Doỉ muôn đời một mối xa thư

277 – Bể kình tâm lặng bằng tờ

278 – Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân

279 – Au vàng khỏe đặt vững chân

280 – Càng bền thế nước vạn xuân lâu daì

Chương Nhì

281 – Vưà năm nhâm tý xuân đầu

282 – Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời

283 – Quyển vàng mở thấy sấm trời

284 – Từ đinh đổi đời chí lửục thất gian

285 – Một thời có một tôi ngoan

286 – Giúp trong việc nước gặp an thái bình

…………………………..

…………………………..

287 – Luận chung một tập kim thời

288 – Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi

289 – Trượng phu có chí thời coi

290 – Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng

291 – Tài nầy nên đấng vẽ vang

292 – Biết chừng đời trị biết đường đời suy

293 – Kể từ nhân đoản mà đi

294 – Số chưa gặp thì biết hoà chép ra

295 – Tiếc thay hiền sĩ bao già

296 – Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công

297 – Thử cho tay giúp ra dùng

298 – Tài này so cùng tài trước xem sao

299 – Trên trời kể chín tầng cao

300 – Tay nghe bằng một ti hào biết hay

301 – Hiềm vì sinh phải thời này

302 – Rấp thù mở nước tiếc thay chưng đời

303 – Hợp đà thay thánh nghìn tài

304 – Giáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời

305 – Nói ra thì lậu sự đời

306 – Trái tai phải lụy tài trai khôn luần

307 – Nói ra ám chúa bội quân

308 – Đương thời đời trị xoay vần được đâu

309 – Chờ cho nhân đoản hết sau

310 – Đến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn

311 – Trời xui những kẻ ắt gian

312 – Kiếp độc đạo thiết làm loàn có hay

313 – Vua nào tôi ấy đã bày

314 – Trên đầu bất chính duới nay dấy loàn

315 – Đua nhau bội bạn nghịch vi

316 – ích gia phi kỷ dân thì khốn thay

317 – Tiếc tài gẩm được thời hay

318 – Đã sao như vậy ra tay sẽ dùng

319 – Tài trai có chí anh hùng

320 – Muốn làm tướng suý lập công xưng đời

321 – Khá xem nhiệm nhặt tộ trời

322 – Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng

323 – Đi tìm cho đến đế cung

324 – Rấp phù xuất lực đế cung được toàn

325 – Bảo nhau cương kỷ cho tường

326 – Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài

327 – Chờ cho động đất chuyển trời

328 – Bấy giờ thánh sẽ nên tay anh hùng

329 – Còn bên thì náu chưa xong

330 – Nhân lực cướp lấy thiên công những là

331 – Đời ấy những quỉ cùng ma

332 – Chẳng còn ở thật người ta đâu là

333 – Trời cao đất rộng bao xa

334 – Làm sao cho biết cửa nhà đế vương

335 – Dù trai ai chửa biết tường

336 – Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này

337 – Ý ra lục thất gian nay

338 – Thời vận đã định thời nầy hưng vương

339 – Trí xem nhiệm nhặt cho tường

340 – Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy

341 – Vua ngự thạch bàn xa thay

342 – Đại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng

343 – Gà kêu vượn hót vang lừng

344 – Đường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò

345 – Nhân dân vắng mạt bằng tờ

346 – Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay

347 – Vua còn cuốc nguyệt cày mây

348 – Phong điều vũ thuận thú rày an dân

349 – Phong đăng hoà cóc chứa chang

350 – Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây

351 – Chính cung phương khảm vần mây

352 – Thức thay thiên tử là nay trị đời

353 – Anh hùng trí lượng thời coi

354 – Công danh chấng ngại tìm đòi ra đi

355 – Tìm lên đến thạch bàn khê

356 – Có đất sinh thánh bên kia cuối làng

357 – Nhìn đi nhìn lại cho tường

358 – Chửa có sinh vương đâu là

359 – Chẳng tìm thì đến bình gia

360 – Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình

361 – Nhìn xem phong cảnh cũng xinh

362 – Tả long triều lại có thành đợt vây

363 – Hửu hổ uấn khúc giang này

364 – Minh đường thất diệu trước bày mặt tai

365 – Ở xa thấy một con voi

366 – Cúi đầu quen bụi trông hồ sâu

367 – ấy điềm thiên tử về chầu

368 – Tượng trưng đế thánh tô lâu trị đời

369 – Song thiên nhật nguyệt sáng soi

370 – Sinh đặng chúa ấy là ngôi chẳng cầu

371 – Đến đời thịnh vượng còn lâu

372 – Đành đến tam hợp chia nhau sẽ làm

373 – Khuyên cho đông bắc nam tây

374 – Muốn làm tướng suý thì xem trông này

375 – Thiên sinh thiên tử ư hoả thôn

376 – Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn

377 – Tiền sinh cha mẹ đà cách trở

378 – Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn

379 – Kià cơn gió thổi lá rung cây

380 – Rung bắc sang nam đông tới tây

381 – Tan tác kiến kiều an đất nước

382 – Xác xơ cổ thụ sạch am mây

383 – Sơn lâm nổi sóng mù thao cát

384 – Hưng điạ tràng giang hoá nước đầy

385 – Một gió một yên ai sùng baí

386 – Cha con người Vĩnh Bảo cho hay

387 – Con mùng búng tít con quay

388 – Vù vù chong chóng gió bay trên đài

389 – Nhà cha cửa đóng then cài

390 – …mầm sấm động hỏi người đông lân

391 – Tiếc tám lạng thương nửa cân

392 – Biết rằng ai có du phần như ai

393 – Bắt tay nằm nghĩ dông dài

394 – Thương người có một lo hai phận mình

395 – Canh niên tân phá

396 – Tuất hợi phục sinh

397 – Nhị ngủ dư bình

398 – Long hổ xà đầu khởi chiến tranh

399 – Can qua tứ xứ loạn đao binh

400 – Mã đề dương cước anh hùng tận

401 – Thân dậu niên lai kiến thái bình

402 – Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu

403 – Có một đàn xà đánh lộn nhau

404 – Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng

405 – Lợn kia làm quái phải sai đầu

406 – Chuột nọ lăm le mong cản tổ

407 – Ngựa kia đủng đỉnh bước về tàu

408 – Hùm ở trên rừng gầm mới dậy

409 – Tìm về quê củ bắt ngứa tàu

* * *

410 – Cửu cửu kiền khôn dĩ định

411 – Thanh minh thời tiết hoa tàn

412 – Trức đáo dương đầu mã vĩ

413 – Hồ binh bát vạn nhập trường an

* * *

414 – Baỏ Giang thiên tủ xuất

415 – Bất chiến tứ nhiên thành

416 – Lê dân bảo bảo noản

417 – Tứ haỉ lạc âu ca

* * * 418 – Dục đức thánh nhân hương

419 – Qúa kiều cư bắc phương

420 – Danh vi Nguyễn gia tử

421 – Kim tịch sinh ngưu lang

422 – Thượng đại nhân bất nhân

423 – Thánh ất dĩ vong ân

424 – Bạch hổ kim đaí ấn

425 – Thất thập cổ lai xuân

* * *

426 – Bắc hữu kim thành tráng

427 – Nam tạc ngọc bích thành

428 – Hỏa thôn đa khuyển phệ

429 – Mục giả dục nhân canh

* * *

430 – Phú quí hồng trần mộng

431 – Bần cùng bạch phát sinh

432 – Anh hùng vương kiếm kích

433 – Manh cổ đổ thái bình

434 – Nam Việt hữu Ngưu tinh

435 – Quá thất thân thủy sinh

436 – Điạ giới sĩ vị bạch

437 – Thủy trầm nhi bắc kinh

438 – Kỷ mã xu dương tẩu

439 – Phù kê thăng đại minh

440 – Trư thử giai phong khởi

441 – Thìn mão xuất thái bình

442 – Phân phân tùng Bắc khởi

443 – Nhiểu nhiểu xuất đông chinh

444 – Bảo sơn thiên tử xuất

445 – Bất chiến tự nhiên thành

446 – Thủy trung tàng bảo cái

447 – Hứa cập thánh nhân hương

448 – Mộc hạ châm châm khẩu

449 – Danh thế xuất nan lương

450 – Danh vi nguyễn gia tử

451 – Tinh bản tại ngưu lang

452 – Mại dử lê viện dưỡng

453 – Khởi nguyệt bộ đại giang

454 – Hoặc kiều tam lộng ngạn

455 – Hoặc ngụ kim lăng cương

456 – Thiên dử thần thức thụy

457 – Thụy trình ngũ sắc quang

458 – Kim kê khai lựu điệp

459 – Hoàng cái xuất quí phương

460 – Nhân nghĩa thùy vi địch

461 – Đạo đức thực dữ đương

462 – Tộ truyền nhị thập ngũ

463 – Vận khải ngũ viên trường

464 – Vận đáo dương hầu ách

465 – Chấn đoài cương bất trường

466 – Quần gian đạo đanh tự

467 – Bách tính khổ tai ương

468 – Can qua tranh đấu khởi

469 – Phạm địch tánh hung hoang

470 – Ma vương sát đại quỉ

471 – Hoàng thiên tru ma vương

472 – Kiền khôn phú taỉ vô lương

473 – Đào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng

474 – Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết

475 – Đảo Hoàn Sơn tam liệt ngũ phân

476 – Ta hồ vô phụ vô quân

477 – Đào viên tán lạc ngô dân thủ thành

478 – Đoài phương phước điạ giáng linh

479 – Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân

480 – Phá điền thiên tử giáng trần

481 – Dũng sỉ nhược hải mưu thần như lâm

482 – Trần công naỉ thị phúc tâm

483 – Giang hồ tử sĩ đào tiềm xuất du

484 – Tướng thần hệ xuất y chu

485 – Thứ ky phục kiến đường ngờ u thi hành

486 – Hiệu xưng thiên hạ thaí bình

487 – Đông tây vô sứ nam thành quốc gia